Thẻ đa năng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương

Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước được phát hành ở khu vực châu Á – TBD đưới các thương hiệu UnionPay, Visa, Mastercard, JCB, American Express và Diners Club đã sản sinh ra $17.988 nghìn tỷ đô la từ mua sắm và sử dụng dịch vụ trong năm 2019, và tăng 6.8% so với năm 2018. Tổng khối lượng bao gồm khối lượng mua sắm, ứng tiền mặt và rút tiền mặt đạt mức $19.365 nghìn tỷ đô, tăng 4.8%. Khối lượng mua sắm tương đương 92.89% tổng khối lượng trong năm 2019 so với 91.11% năm 2018.

Khối lượng mua sắm bằng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước mang thương hiệu UnionPay $14.352 nghìn tỷ đô, tăng 6.8%. Khối lượng mua sắm bằng thẻ Visa đạt 1.966 nghìn tỷ đô tăng 5.4%. Khối lượng mua sắm bằng thẻ Mastercard tăng 8.7% đạt mức $1.147 nghìn tỷ đô. JCB, tăng 9.3% đạt $309.40 tỷ. American Express tăng 5.3% đạt $203.52 tỷ đô và Diners Club giảm 3.3% đạt 10.65 tỷ đô.

Khi so sánh khối lượng mua sắm tại khu vực châu Á – TBD với các loại thẻ tín dụng, ghi nợ và trả trước, thị phần của Union Pay đạt 79.78% tăng từ 79.76% trong năm 2018. Thị phần của Visa giảm nhẹ xuống 10.93% từ 11.08%. Đối với Mastercard, thị phầm tăng lên 6.38% từ 6.26%. Thị phần của JCB tăng 1.72% từ 1.68%. Thị phần của American Express giảm xuống 1.13% từ 1.15% và thị phần của Diners Club giảm xuống 0.06% từ 0.07%.

Giá trị trung bình của mỗi giao dịch bằng thẻ UnionPay là $109 trong năm 2019 so với $137 trong năm 2018. Giá trị này tiếp tục giảm vì việc sử dụng thẻ thanh toán tại các điểm POS tại Trung Quốc tăng lân, bao gồm cả các thanh toán bằng mã QR.

Giá trị trung bình của mỗi giao dịch bằng thẻ American Express trong năm 2019 là $194 so với $193 trong năm 2018.

Chi tiêu, giao dịch và thẻ theo thương hiệu toàn cầu 2019 vs.2018

Giá trị giao dịch trung bình của thẻ Diners Club giảm từ $147 năm 2018 xuống $143. JCB vẫn tiếp tục giữ nguyên mức $75, trong khi Visa ($64) và Mastercard ($55) có giá trị sụt giảm so với năm 2018. Đối với UnionPay, tiền mặt chiếm 3.62% trên tổng khối lượng (giảm từ 5.63%). Tiền mặt chiếm 19.50% (giảm tử 21.30%) đối với Visa, 23.45% đối với Mastercard (giảm từ 23.63%), 2.37% đối với JCB (giảm từ 2.60%), 1.11% đối với Amex (giảm 1.32%), và 1.65% đối với Diners Club (tăng từ 2.59%).

Giao dịch mua sắm hàng hóa và dịch vụ được tạo ra từ thẻ đa năng của các thương hiệu thẻ UnionPay, Visa, Mastercard, JCB, Amex và Diners Club tại khu vực châu Á – TBD đạt 187.99 tỷ trong năm 2019 tăng 26.4%. Thẻ UnionPay chiếm 69.80% các giao dịch này.

Thẻ Visa chiếm 16.27% thị phần. Thẻ Mastercard chiếm 11.14%. JCB chiếm 2.19%. Thẻ Amex chiếm 0.56% thị phần và thẻ Diners Club chiếm 0.04%.

Thương hiệu UnionPay chiếm 82.40% tổng số lượng thẻ trên toàn cầu được phát tại khu vực châu Á – TBD.

Thương hiệu Visa chiếm 9.85% trên tổng khối lượng thẻ được phát hành tại khu vực châu Á – TBD. Mastercard chiếm 6.16%. JCB chiếm 1.35% và American Express và Diners Club tương đương 0.24%.

Khối lượng mua sắm trêm một thẻ cao nhất là từ thương hiệu American Express đạt $8.803 tăng 3.7%, tiếp theo là Diners Club là $7.557, tăng 0.8% , JCB là $2.237 giảm 0.8%, Visa là $1.954 tăng 6.8%, Mastercard là $1.822 tăng 7.4% và UnionPay là 1.705 giảm 3.6%.

Tại Visa, số lượng thẻ được phát hành tại khu vực châu Á – TBD chiếm 21.98% tổng khối lượng mua sắm của thương hiệu trên toàn thế giới, giảm từ 22.63% trong năm 2018. Thẻ Visa trong khu vực chiếm 16.49% của tổng khối lượng giao dịch trên toàn cầu, tăng 16.48%.

Tại Mastercard, số lượng thẻ được phát hành tại khu vực châu Á – TBD chiếm 24.06 % tổng khối lượng mua sắm của thương hiệu trên toàn thế giới, giảm từ 25.07% trong năm 2018. Thẻ Mastercard trong khu vực chiếm 19.33% của tổng khối lượng giao dịch trên toàn cầu, giảm từ 20.16%.

Thị phần giao dịch mua sắm 2007 – 2019

Nguồn Nilson Report July 2020

Tin khác